#ls #lslawfirm #giamdoctham #vuanhanhchinh
Giám đốc thẩm là thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm khi phát hiện có vi phạm pháp luật gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Đây là một thủ tục đặc biệt và cần thiết trong pháp luật tố tụng. Để hiểu rõ hơn về thủ tục giám đốc thẩm trong vụ án hành chính, mời quý độc giả cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây!
Chủ thể có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Nếu như thủ tục phúc thẩm có thể được phát sinh do kháng cáo của đương sự và kháng nghị của Viện kiểm sát thì thủ tục giám đốc thẩm chỉ phát sinh khi có kháng nghị của các chủ thể có thẩm quyền.
Theo quy định tại Điều 260 Luật Tố tụng hành chính 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) (“TTHC”) thì những người sau đây có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm:
“1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
2. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp tỉnh, Tòa án cấp huyện thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ”.
Đối tượng kháng nghị theo thủ tục Giám đốc thẩm
Thứ nhất, những bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm;
Thứ hai, những bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
Thứ ba, những quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao.
Căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Thứ nhất, kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự (điểm a khoản 1 Điều 255 Luật TTHC).
Những tình tiết khách quan của vụ án được thể hiện thông qua chứng cứ do các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp và Tòa án xác minh đánh giá. Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp là do việc xác minh, thu thập chứng cứ không đầy đủ hoặc đánh giá chứng cứ không đúng theo quy định của pháp luật dẫn đến hậu quả gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án.
Thứ hai, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật (điểm b khoản 1 Điều 255 Luật TTHC).
Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng được hiểu là người tiến hành tố tụng đã thực hiện không đúng các quy định của pháp luật tố tụng hành chính (ví dụ: trường hợp Tòa án thụ lý sai thẩm quyền; Vi phạm quy định về các trường hợp từ chối, thay đổi người tiến hành tố tụng; Thành phần Hội đồng xét xử không đúng với quy định của pháp luật,…) làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ ba, có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba (điểm c khoản 1 Điều 255 Luật TTHC).
Sai lầm trong việc áp dụng pháp luật thể hiện ở việc Tòa án áp dụng sai văn bản quy phạm pháp luật, áp dụng không đúng điều luật,… dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
Điều kiện kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Theo khoản 2 Điều 255 Luật TTHC quy đinh về Căn cứ, điều kiện kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm: “Người có thẩm quyền kháng nghị quy định tại Điều 260 của Luật này kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này và có đơn của người đề nghị theo quy định tại Điều 257 và Điều 258 của Luật này, trừ trường hợp xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba thì không cần thiết phải có đơn đề nghị”.
Theo đó, chủ thể có thẩm quyền chỉ được kháng nghị giám đốc thẩm khi có căn cứ theo quy định của pháp luật, đồng thời phải có đơn đề nghị kháng nghị của đương sự hoặc thông báo của cá nhân, cơ quan và tổ chức trong xã hội nếu phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng không đúng quy định của pháp luật.
Thời hạn kháng nghị
Điều 263 Luật TTHC quy định về Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm như sau:
“1. Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được quyền kháng nghị trong thời hạn 03 năm kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
2. Thời hạn kháng nghị phần dân sự trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự”.
Việc pháp luật quy định thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm như trên để đảm bảo quyền tiếp cận công lý của người dân và giúp bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Thông qua việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm trong vụ án hành chính, Tòa án có thẩm quyền sẽ tổng kết rút kinh nghiệm xét xử, cũng như hướng dẫn Tòa án cấp dưới áp dụng đúng các quy định pháp luật, tránh việc xét xử sai lầm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án cũng như chất lượng xét xử của Tòa án.
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH LS và Cộng sự (“LS Law Firm”)
Trên đây là những nội dung cơ bản về “Thủ tục giám đốc thẩm trong vụ án hành” chính dựa trên quy định pháp luật tại thời điểm thực hiện bài viết. Nếu Quý khách có nhu cầu cần tư vấn về vấn đề nêu trên hoặc đang quan tâm đến các dịch vụ pháp lý khác, hãy liên hệ ngay với LS Law Firm qua Email: lslawfirm2014@gmail.com để được hỗ trợ kịp thời.
Lưu ý: Bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, mọi việc sao chép sử dụng bài viết để làm chứng cứ riêng trong bất kỳ vụ, việc nào đều xem như không được phép./.